Từ nguyên và nội hàm Operon lac

  • Đây là thuật ngữ trong sinh học phân tử, do hai nhà khoa học người Pháp là François JacobJacques Monod đề xuất sau các thành tựu nghiên cứu của hai ông ở vi khuẩn lị E. coli (được trao tặng Giải Nobel Sinh lý học và Y khoa năm 1965). Thuật ngữ này gồm hai từ tiếng Pháp ghép lại là "opérone" (do hai ông sáng tạo) và "lac" (viết tắt tên của đường lactose).
  • Operon lac gồm một đoạn ADN gồm hai miền chính (sơ đồ phải ở hình 1): miền điều hoà có hai vùng, mỗi vùng là một chuỗi trình tự đêôxiribônuclêôtit là vùng khởi động (promoter) và vùng vận hành (operator) + miền chứa mã prôtêin (gồm ba gen). Ba gen này là ba gen cấu trúc liền nhau, ban đầu hai ông gọi là gen C1, C2 và C3 (C viết tắt từ chữ: cistron), sau nhiều nhà khoa học đã đổi tên là gen Z, gen Y và gen A. Các gen này cùng được phiên mã một lúc, nên gọi là gen đa xi-trôn (polycistronic gene), còn bản phiên mã của chúng gọi là ARN đa xi-trôn (polycistronic mRNA).
  • Mặc dù operon lac chịu sự điều khiển của một gen khác nằm xa operon này (sơ đồ trái ở hình 1) gọi là gen điều hoà (regulator gene), nhưng gen điều hoà không thuộc operon lac.[2][3][4]